Tháng 8 năm 1962, mình vào học khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Hôm gặp gỡ đầu tiên đám sinh viên năm thứ nhất, thầy Nguyễn Lương Ngọc, chủ nhiệm khoa có nói, đại ý: Các anh các chị học Văn thì phải đọc suốt đời, không đọc sao tiếp cận được với văn chương, các anh các chị dạy học thì phải học suốt đời, không học làm sao dạy được. Cho nên, phải học, phải đọc.

Rồi cứ thỉnh thoảng có dịp gặp gỡ, lại nghe thầy nhắc “phải làm sao biết mười dạy một”, rồi “không được rời quyển sách”, …

Càng ngẫm càng thấy lời thầy dạy vô cùng cần thiết.

Gọi là ba năm học, nhưng chỉ có 27 tháng. Trong 27 tháng ấy, mất  3 tháng tập quân sự (mỗi năm học 1 tháng), 1 tháng rưỡi lao động sản xuất ở Cốt Bài (cách Hà Nội khoảng 50 km, mỗi năm học nửa tháng lên trồng sắn, đẵn tre, vác nứa dựng lán trại, chăn bò, …), 1 tháng rưỡi học chính trị (mỗi đầu năm học hai tuần học các loại nghị  quyết). Thế là chỉ còn có 21 tháng. Trong 21 tháng ấy, mỗi năm dồn lại, chắc cũng mất một tháng để học những cái thuộc về chủ nghĩa Mac-Lênin (Lịch sử đảng, Chính trị kinh tế học, Triết học). Thế là chỉ còn có 18 tháng để nghe giảng và học hành về văn chương chữ nghĩa.  Mà chắc chắn không thể đủ được con số 18 tháng ấy vì còn bao nhiêu đột xuất. Không tự học, không lúc nào cũng gắn với quyển sách thì hy vọng gì?

Vừa nghe lời dạy của Ông Bà, Cha Mẹ thời nhỏ, giờ lại nghe lời thầy nên mình rất chăm đọc và cũng có nghĩa là chăm học.

Mà nói thật, cái hay nhất của nền giáo dục xưa theo mình là ở chỗ, nó dạy cho nguời học trò (dù là mới học tiểu học) có được cái lòng ham học, và nhờ đó mà nguời ta học suốt cuộc đời, chẳng cần ai thúc ép, chẳng cần gì các loại bằng cấp hay danh hiệu.

Từ khi đi dạy học, ở xa Hà Nội, nơi có nguồn sách phong phú, về sống ở làng quê  xa xôi, kiếm tờ báo còn khó, nhưng nhiều anh em giáo viên dạy cùng trường, nhất là những người  dạy cùng các môn xã hội đều tìm sách mới để mang lên, truyền tay nhau mỗi khi có dịp về nơi gọi là trung tâm văn hóa. Việc đọc có hạn chế, nhưng vẫn được duy trì. Một phần do thói quen, một phần do yêu cầu của công việc. Những năm ấy, thi cử tương đối nghiêm túc (giáo viên không được coi thi và chấm bài thi của học sinh trường mình, mỗi kỳ thi đều có khoảng 50% giáo viên của các tỉnh khác nhau được Bộ cử về làm giám thị và giám khảo). Dạy “lơ mơ” học sinh trượt ngay. Cử người dạy lớp cuối cấp là một băn khoăn lớn của mấy ông Hiệu trưởng. Có anh dạy cả chục năm vẫn không được tin cậy, có người đang dạy trường khác lại được mời mọc. Nhớ năm 1971, trường mình có 4 lớp 10, 2 người dạy Toán. Kết quả kỳ thi khiến một anh thiếu nước chui xuống đất. 2 lớp do anh dạy chỉ có 8% học sinh được điểm trên trung bình, trong khi 2 lớp do người kia dạy được gần 70%. Được phân công dạy lớp cuối cấp là niềm vinh hạnh nhưng cũng vô cùng lo lắng. Rồi được cử “đem chuông đi đấm nước người” (đi coi và chấm thi ở tỉnh ngoài) cũng lo không kém. Được dịp đi chơi, (khi ấy đi lại khó khăn lắm), gặp gỡ bè bạn ở khắp miền Bắc, là dịp học hỏi được  rất nhiều, nhưng không cẩn thận cũng lòi cái dốt ra cho “cả miền Bắc” biết. Chỉ có một cách là học. Học sách vở và học đồng nghiệp.

Ý thức được việc ấy, nên các cấp lãnh đạo bấy giờ rất chú ý đến việc tạo điều kiện cho giáo viên nâng cao, mở rộng hiểu biết. Mỗi trường bấy giờ ít giáo viên lắm. Văn, Toán là những môn nhiều giáo viên cũng chỉ có 3 , 4 nguời dạy một bộ môn (trường nhỏ chỉ có 2 người).Mỗi tháng, giáo viên bộ môn của mấy trường gần nhau (gọi là “cụm”) gặp gỡ, trao đổi về chuyên môn,  bàn cách dạy các bài khó, cách khắc phục những yếu kém của học sinh, …Có khi trao đổi, bàn bạc chung, có lúc vài ba người thân chỉ bảo cho nhau. Cũng có chuyện “giấu nghề” đấy nhé! Cứ luân chuyển trường nọ tới trường kia. Mỗi học kỳ (vào lúc nghỉ giữa hai học kỳ), giáo viên bộ môn cả tỉnh gặp nhau một hoặc hai tuần. Nghỉ hè, gặp nhau một tháng. Mỗi năm tập trung ở một nơi. Những cuộc gặp gỡ này giúp chúng tôi học tập được rất nhiều.

Thường mỗi đợt tập trung có những chuyên đề. Các báo cáo viên đều là các cán bộ nghiên cứu có tầm cỡ của Viện Văn học hoặc các cán bộ giảng dạy hàng đầu của trường Đại học Sư phạm (lúc này hầu như chưa  ai được phong Giáo sư, ngay phó tiến sĩ cũng rất hiếm). Có chuyên đề báo cáo một buổi, có khi hai ba buổi. So với bây giờ, những thông tin qua các báo cáo ấy chắc cũng còn nhiều hạn chế. Nhưng cái quan trọng là qua đó, giáo viên được cập nhật với tình hình chung của sự phát triển văn học, cảm thấy những công việc  thường ngày của mình không chỉ gắn với lớp học sinh ở lứa tuổi chưa đủ lớn.

 

Nhưng thú vị nhất là được gặp gỡ, trao đổi với các đồng nghiệp. Khi ấy, giáo viên Văn tự nhiên hình thành hai “thế hệ”. Lớp đầu gồm những người đã học qua các trường của Pháp, rồi đi bộ đội hoặc làm gì đấy trong kháng chiến,  sau 1954, trở về học Đại học sư phạm (2 năm). Lớp giáo viên này thường hơn mình khoảng hai chục tuổi. Họ biết tiếng Pháp, có thể đọc được sách văn học Pháp bằng nguyên bản. Nền giáo dục thực dân phong kiến đã “nhồi sọ” khá thành công nên nền tảng kiến thức của họ rất vững vàng. Nhớ hè năm 1969, một nhà nghiên cứu chuyên về văn học phương Tây của Viện Văn học, thường xuyên có bài in trên Tạp chí nghiên cứu văn học để định hướng dư luận về báo cáo, ông phê phán những tác phẩm gọi là hiện sinh hay chủ nghĩa hiện thực không bờ bến (trái với chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của phe ta) chưa hề được dịch ra tiếng Việt ở miền Bắc, phải chờ đến sau 1975, mình mới được đọc những cuốn sách từ Sài Gòn mang ra như “Đi tìm thời gian đã mất”, “Số không và vô tận”, “Bác sĩ Zi-va-gô”, … một giáo viên Văn của trường huyện đã đứng lên phản bác. Cái đám giáo viên được đào tạo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa như mình thì chỉ có há hốc mồm mà nghe như “vịt nghe sấm”, chỉ nhớ được một câu “anh giáo trường huyện” ấy nói với diễn giả: “Tôi sợ anh chỉ mới đọc lướt”.

Hàng ngày, gặp gỡ, bọn mình vẫn xưng hô “anh, tôi”, các anh ấy cũng rất thân mật “cậu,  tớ”  nhưng quả thật coi họ là bậc thầy, là đàn anh. Ban đầu, chỉ có mấy ông ấy tranh luận với nhau về cả chuyên môn và nghiệp vụ, bọn mình chỉ ngồi nghe, nhưng cũng thấy hứng thú. Sau dần dần cũng tham gia. Chính do được gần gũi những người như thế, tham gia vào những cuộc tranh cãi (nhiều khi xem ra như vô bổ) ấy, mà tầm hiểu biết được rộng mở.

Rồi cũng dự giờ của những người được coi là “tay nghề cao” (chưa ai dám to gan gọi nhau là “giáo viên dạy giỏi”). Nhưng dạy  thật, mà dạy học sinh của trường khác, dạy ngay lần đầu tiên gặp mặt chứ không phải thầy và trò cùng diễn kịch  như bây giờ (một bài, dạy đi dạy lại, dặn học trò cách trả lời, cách giơ tay, “chán chê mê mỏi” rồi mới để cấp trên về dự sau đó  được công nhận “giáo viên dạy giỏi”). Người dạy được chỉ định một bài, trường sở tại tập hợp một lớp học sinh, dặn soạn bài trước (theo câu hỏi trong sách giáo khoa). Giờ dạy nào cũng rất lý thú và hữu ích. Như thế người tới dự giờ  mới có thể học được. Học cách dạy, cách ứng xử những tình huống đột xuất ngoài cách phân tích, khai thác tác phẩm, …. Tất nhiên cũng có những giờ không thành công. Nhưng dù thế nào cũng là để học. 

Lúc ấy, đi học phải góp tiền, góp tem gạo ăn hàng ngày; ngủ thì lớp học đấy, mỗi anh lấy hai cái bàn học sinh ghép lại, thế là thành giường. Suốt một  tháng, chỉ nghỉ ngày chủ nhật. Thế mà hào hứng lắm, ai vì lý do gì không có mặt được đều tiếc. Vì sau mỗi đợt tập trung như thế, việc giảng dạy của từng người chắc có những thay đổi.

Xem ra bây giờ, giáo viên ít học (trừ một số người cần để dạy thêm, nghĩa là có “đất dụng võ”) vì trước hết là không có động lực. Dạy kiểu gì học trò cũng đỗ gần trăm phần trăm cả, thậm chí có khi chẳng cần dạy chúng vẫn đỗ (vì đã có “phao”). Cũng chính vì thế mà không biết ai hơn ai, có thể học ai, “cá mè một lứa” cả. Thầy mà như thế sao khuyên được trò chăm học?  

3 BÌNH LUẬN

  1. Thầy đúc kết quá chuẩn.Ngay như em hồi học vỡ lòng biết đọc,biêt viêt là biêt nhịn ăn sáng để lấy tiền mua truyện đọc.Lớn một chút thì đọc tiểu thuyết,hầu như bữa cơm nào được nấu cũng bị xém do mải đọc truện.Em cũng truyền sự đam mê này cho con gái nên phòng nó cũng toàn sách kín luôn.

  2. Quá chuẩn luôn!Nhớ lại cái thời mới vào nghề những năm từ 1976- 85 quá đi thôi. Bây giờ thì loạn cả lên! Buồn!

Trả lời Tuat Bui Van Hủy trả lời

Please enter your comment!
Please enter your name here