Lưu Bang trọng dụng Hàn Tín, quả nhiên như hổ thêm cánh. Năm 205 trước CN, trong chiến tranh với nước Triệu, Hàn Tín đánh trận Bối Thủy, đại phá quân Triệu, giết Thành An Quân Trần Dư, bắt được Triệu vương Yết, lập được kỳ công.

Năm 205 trước CN, căn cứ của Lưu Bang ở Quan Trung đã được củng cố, liền tiến quân về phía đông, trên đường đánh bại nước Ngụy, lại lệnh cho Hàn Tín, Trương Nhĩ mang mấy vạn quân Hán, tiến thẳng đến nước Triệu. Triệu vương Yết, Thành An Quân Trần Dư (1) lập tức điều động gần hai mươi vạn quân đến đóng ở cửa Tỉnh Hình. Triệu vương Yết là một kẻ dốt nát, người chỉ huy thực tế là Thành An Quân Trần Dư, nước Triệu cũng không thiếu nhân tài trong đó Quảng Võ Quân Lý Tả Xa chính là một người kiệt xuất. Lý Tả Xa hoàn toàn hiểu rõ tình hình hiện tại, vì thế, đã nói với Thành An Quân:

– Hàn Tín trên đường giữ cửa, chém. tướng, mạnh khó thể  đương đầu, bây giờ lại có Trương Nhĩ giúp sức nên thế càng khó đánh. Nhưng quân Hán từ xa đến, mệt nhọc không chịu nổi, binh sĩ cũng khó được ăn ngon ngủ yên. Lại thêm giao thông ở Tỉnh Hình không thuận tiện, quân Hán rất khó tiếp tế lương thảo. Bây giờ, có thể cử ba vạn kỵ binh, cắt đứt con đường cung ứng lương thảo của Hàn Tín. Ngài chỉ cần cất giấu quân kín đáo, thành cao hào sâu, giữ thành không đánh. Vậy thì Hàn Tín tiến thoái không được, lương thảo cạn dần tất thua, không còn nghi ngờ gì. Nếu không, ngược lại, chúng ta sẽ bị Hàn Tín bắt.

Nhưng Trần Dư không chịu nghe, lại nói những lời kiểu như: “kẻ trượng phu không dùng kế lừa gạt”. Quảng Vũ Quân lại khuyên Trần Dư không nên ngồi nhìn thời cơ thuận lợi qua đi, nhưng Trần Dư tự phụ, không thèm dùng mưu kế của Quảng Vũ Quân.

Đang lúc Hàn Tín vô cùng lo lắng sợ Quảng Vũ Quân phá công việc của mình thì lại nghe tin Trần Dư không dùng Quảng Vũ Quân. Hàn Tín trút tiếng thở dài, lập tức chỉ huy quân áp sát quân Triệu, đến cách Tỉnh Hình cách  nơi quân Triệu đóng quân  ba mươi dặm thì hạ trại.

Nửa đêm, Hàn Tín truyền lệnh tiến quân. Ông chọn hai nghìn kỵ binh, mỗi người mang theo một lá cờ đỏ, dựa vào thế núi yểm trợ, giám sát mọi động tĩnh của quân Triệu. Hàn Tín dặn dò lính:

– Quân Triệu thấy quân ta thua trận rút lui, tất dốc hết quân đuổi theo chúng ta. Lúc đó, các ngươi phải lập tức đột kích vào doanh trại quân Triệu, nhổ hết cờ quân Triệu, thay bằng cờ của quân Hán.

Hàn Tín còn tự tin nói với các tướng:

– Hôm nay, chúng ta không chiếm được địa hình có lợi, họ không thấy được cờ của chủ tướng quân Hán, sẽ không đuổi theo, sợ chúng ta đến nơi đường núi hiểm yếu sẽ quay lại, đến lúc đó thì khó chống đỡ.

Sau đó, Hàn Tín điều động hơn một vạn quân mã xuất phát, đến bên bờ sông, bố trí trận địa ở Bối Thủy. Quân Triệu thấy thế cười lớn.

Trời sáng, Hàn Tín dựng cây làm cờ, đưa quân rút khỏi cửa Tỉnh Hình. Quân Triệu lập tức ra khỏi thành đuổi theo, sau một trận đại chiến giữa hai bên, Hàn Tín giả vờ thua chạy, vứt bỏ cờ xí, rút đến bờ sông, hợp quân với hơn một vạn quân chờ sẵn ở đó, cùng quân Triệu giao chiến. Quân Triệu thấy cờ tướng của Hàn Tín, đánh ép lại, thấy quân của Hàn Tín đã rút đến bên bờ sông, trước mặt là hai mươi vạn quân Triệu, sau lưng là sông Hoàng Hà mênh mông, lại không có thuyền, mọi người đều hiểu rút lui là đi vào đường chết, chỉ có dũng cảm hướng vế phía trước chiến đấu, chắc sẽ còn hy vọng sống. Quân Hán liều chết xung trận, một có thể địch nổi mười, khí thế rất mãnh liệt.

Hang nghìn kỵ binh lúc trước bây giờ đã cắm đầy cờ Hán trong doanh trại quân Triệu. Quân Triệu bị quân Hán ngoan cường chống trả ở nơi tử địa không sao thắng nổi, đang muốn rút quân về thì thấy trong trại quân của mình đã cắm đầy cờ Hán. Nghĩ là Triệu vương đã bị quân Hán bắt, toàn quân hỗn loạn, đua nhau đổ vỡ. Tướng Triệu phải liên tục chém giết quân lính bỏ chạy cũng không thể cứu vãn được tình hình. Thua trận như núi sụp, quân Triệu đã không còn sức chiến đấu. Hàn Tín lập tức cho quân đuổi theo cùng phối hợp với hai nghìn kỵ binh đã có mặt từ trước, hai bên phối hợp đại phá quân Triệu, giết Thành An Quân Trần Dư, bắt được Triệu vương Yết.

Sau cuộc chiến, mọi người hỏi Hàn Tín:

– Binh pháp đã nói, bên phải, đàng sau là núi cao hiểm yếu, trước mặt, bên trái là sông lớn khó bày trận. Tướng quân cớ sao lại bày trận ở Bối Thủy, còn tự tin nói “đánh toàn thắng rồi ăn cơm sáng”, mà kết quả đúng như ngài nói. Lẽ nào ở đây có cái gì khó hiểu?

Hàn Tín cười lớn, nói:

– Kế sách của ta cũng là từ binh pháp mà ra, chỉ là do mọi người chưa đọc kỹ binh pháp thôi. Binh pháp chẳng đã nói “lao vào cái chết để sống” sao? Quân đội của chúng ta không được huấn luyện như quân đội xưa nay, nói thì khó nghe, nhưng thực giống như một đội quân ô hợp. Một đội quân như thế mà phải chống lại với quân Triệu tinh nhuệ gấp nhiều lần, nếu như không bày trận ở nơi hoàn toàn không có đường lui, sợ là sớm chẳng còn quân nữa, sao có thể làm cho mọi người liều chết mà đánh?

Các tướng  nghe xong mới hiểu ra, vô cùng khâm phục, đều khen:

–         Sự sáng suốt của tướng quân khiến bọn hậu sinh chúng tôi khó theo kịp.

“Đập nồi dìm thuyền” của Hạng Vũ cùng với “Bối Thủy nhất chiến” của Hàn Tín khác nhau nhưng đều kỳ diệu, đều thể hiện suy nghĩ đầy đủ về tầm quan trọng của tác dụng tâm lý trong chiến tranh.

 

Chú thích:

  1. Trần Dư: người Đại Lương, nước Ngụy cuối đời Chiến Quốc. Năm 209 trước CN,tham gia khởi nghĩa Trần Thắng chống Tần, làm Hiệu úy, không lâu sau, giúp lập Võ Thần làm Triệu Vương, tự nhận Đại tướng quân. Sau do bất mãn với Hạng Vũ trong việc phân phong cho mình, theo Triệu Yết. Năm 204 trước CN, bị quân Hán giết.
  2. Tỉnh Hình khẩu ở vùng núi Tỉnh Hình, Hà Bắc ngày nay, là một cửa ải quan trọng của núi Thái Hành, thuộc loại người cầm quân phải nắm giữ, vì địa thế bốn bề cao, ở giữa thấp, hình giống như cái giếng mà thành tên.

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here