Mấy hôm nay Ủy ban thường vụ Quốc hội đang bàn về giáo dục. Nghe ý kiến của các vị đại biểu của dân mà khiếp. Các vị bảo chương trình giáo dục hiện nay “chưa mang hồn thời đại”. Bà con nào có biết cái “hồn thời đại” mặt mũi ngang dọc thế nào làm ơn chỉ cho thẳng dân ngu này biết với! Hay các vị muốn trở lại cái thời ông Tố Hữu:

Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng,

Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau,

Trông bắc trông nam, trông cả địa cầu?

Và chương trình thế nào là mang hồn thời đại nhỉ?

Hóa ra “chém gió” bây giờ đã không phải là độc quyền của mấy cậu “choai choai”!

Mình thì chỉ thấy, các vị đừng nghĩ tới chuyện cải cách chương trình, sách giáo khoa, … gì vội. Cái quan trọng nhất hiện nay cần cải cách trong giáo dục là chuyện con người. Nếu con người vẫn như hiện nay thì có cải cách kiểu gì cũng lại “mèo lại hoàn mèo” thôi. Đã có bao nhiêu cuộc cải cách chương trình và sách giáo khoa từ năm 1981 đến nay rồi, tốn kém biết bao tiền của, công sức, … mà thất bại vẫn hoàn thất bại.

Sau 1945, chương trình giáo dục còn khá thô sơ (chủ yếu theo chương trình Hoàng Xuân Hãn ra đời một cách vội vàng sau khi Nhật đảo chính Pháp), sách giáo khoa hầu như chưa có, điều kiện cơ sở vật chất cho giáo dục cực kỳ thiếu thốn, nhưng con người lúc đó, dù học hàm, học vị chưa cao, nhưng do có phẩm chất đạo đức, có học vấn đầy đủ, cộng với tấm lòng yêu nước thiết tha đã mang lại thành tựu nhất định cho  nền giáo dục. Trong khoảng 15 năm (1945 – 1960), chất lượng của giáo dục Việt Nam có sút kém so với giáo dục trước 1945 nhưng còn chấp nhận được. Vì những người tham gia vận hành nền giáo dục lúc này còn là sản phẩm của nền giáo dục cũ, mặc dù không ai kêu gọi, nhưng phải công nhận, họ đều là những người vừa có đức, vừa có tài.

Nhưng từ sau 1960, chúng ta luôn luôn nói tới “vừa hồng vừa chuyên” nhưng sản phẩm của nền giáo dục Việt Nam lại hoàn toàn không được như thế. Và những con người do chính nền giáo dục đào tạo ra quay lại gây tai họa cho chính nó. Cái vòng lẩn quẩn này cứ quay hết chu kỳ này tới chu kỳ khác, và kết quả của nó là nền giáo dục hiện nay. Nếu không có những cải cách cấp bách về con người, giáo dục Việt Nam chỉ có thể càng giảm sút hơn hiện nay. Chúng ta sẽ chỉ luôn luôn cố gắng để “năm sau bằng được năm nay” đã là sự may mắn.

Con người tác động đến  giáo dục hiện nay có thể chia làm nhóm. Mỗi nhóm này ảnh hưởng khác nhau đến giáo dục.

  1. Trước hết là nhóm các vị ở tầng vĩ mô. Tức là những con người quyết định tầm chiến lược, hay cái mà các vị nói là những người xác định triết lý của giáo dục, đường lối giáo dục.

Cứ mỗi khi đến dịp 70, 80 hay 100 năm ngày sinh, ngày mất hay ngày gì đó của các vị, lại thấy không ít các bài tung hô, coi các vị như thánh sống, cứu tinh cho giáo dục Việt Nam. Mình chẳng dám phủ nhận, nhưng xin phép được nghi ngờ. Vì các vị ấy, suốt trong bao nhiêu năm chèo lái con thuyền giáo dục Việt Nam, hết người này tới người khác, nhưng chưa bao giờ mình thấy giáo dục Việt Nam có chiều hướng đi lên. Từ sau 1945, tức là khi mình bắt đầu biết hưởng thụ nền giáo dục cho đến khi mang cả đời góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp trồng người, chỉ toàn thấy nó đi xuống, và đến nay thì nó “đang tan hoang” như từ dùng của một nhà giáo đáng kính.

Suy nghĩ mãi mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp. Sau nghĩ rằng, có lẽ các vị không phải không có tài năng, chỉ có điều cái tài năng ấy chưa được sử dụng. Hay nói đúng hơn, những đường lối giáo dục người ta vẫn cho rằng các vị là tác giả thật ra các vị không tán thành. Nhưng các vị ở cái thế “chẳng đặng đừng”. Lẽ ra, khi đã ở trong  cái tình thế như vậy, các vị nên có thái độ phản đối. Những người cầm quyền sẽ phải có thái độ thận trọng. Hay ít ra, những người được hưởng thụ cũng thấy thận trọng niềm tin khi không thấy các vị đứng tên tác giả. Đằng này, các vị cứ im lặng, coi “im lặng là vàng. Thế là dân chúng “ăn quả lỡm”. Cuối cùng chỉ có dân là thiệt. Tốn kém bao nhiêu tiền của công sức cho con ăn học mà chẳng đâu vào đâu. Thậm chí có người cả tin vào cái nền giáo dục của các vị chủ trương mà đứa con dứt ruột đẻ ra, lại nuôi nấng với bao hy vọng trở thành một con người  “bán thân bất toại” về trí tuệ

Tóm lại, nhóm người cần cải cách đầu tiên là những người có quyền quyết định đến  những vấn đề vĩ mô của  cải cách giáo dục. Cải cách giáo dục phải vì tự thân yêu cầu của giáo dục, vì sự nghiệp nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp xây đựng đất nước  chứ không phải vì phục vụ cho mục đích chính trị của một nhóm lợi ích nào đấy.

Không thay đổi nhóm người này, chỉ rồi lại lãng phí nhiều nghìn tỷ đồng tiền thuế của nhân dân, lãng phí biết bao thế hệ con người Việt Nam sinh ra, lớn lên mà chẳng giúp ích gì, thậm chí còn làm hại tới tương lai của đất nước.

  1. Nhóm người thứ hai cần cải cách là nhóm những người làm công việc chỉ đạo, nghiên cứu, theo dõi, đôn đốc hiện đang làm việc ở Bộ, ở các Sở, Phòng Giáo dục.

Trước hết, vì các lợi ích riêng mà chính các nhóm người này đã đi ngược lại những gì các nhà cải cách ở tầm vĩ mô đã đề ra. Còn nhớ trong cải cách giáo dục năm 1981, các nhà cải cách đã chủ trương thêm một lớp ở cấp trung học cơ sở để học sinh sau khi tốt nghiệp cấp học này được thêm một tuổi, được trang bị thêm một số kiến thức để có thể ra trường, theo học các lớp dạy nghề, chỉ khoảng 30% học sinh tốt nghiệp tiếp tục theo học lên cấp trung học phổ thông rồi được chọn lọc tiếp để vào đại học. Lẽ ra với chủ trương này, sự phát triển các trường phổ thông trung học cần được hạn chế về số lượng. Thay vào đó, ngân sách nhà nước dành cho giáo dục phải được đầu tư vào việc nâng cao chất lượng các  trường phổ thông trung học sẵn có và mở thêm nhiều  trường dạy nghề. Nhưng những người làm công việc quản lý ngành giáo dục từ cấp trung ương đến các tỉnh, thành phố đã làm điều ngược lại. Ở các địa phương, các trường phổ thông trung học cả công lập lẫn dân lập tiếp tục được phát triển hết mức. Số lượng trường phổ thông trung học nay đã thỏa mãn gần 100% nhu cầu học tập của học sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở, thậm chí, nhiều trường phổ thông trung học còn không có học sinh vì chẳng ai có nhu cầu học mà không có trường. Một mặt họ vẫn kêu gào chương trình quá nặng, học sinh bị quá tải, cần phải giảm tải…(dĩ nhiên cần phải có tiền),  nhưng một mặt, họ vẫn để cho học sinh tha hồ ngồi nhầm lớp, đó chính là nguyên nhân gây nên chuyện học thêm dạy thêm tràn lan trong các nhà trường hiện nay. Cấp đại học cũng đua nhau phát triển mặc dù từ cách nay khoảng gần hai chục năm, người ta đã cảnh báo nạn “thừa thầy thiếu thợ”. Nhiều nơi, dù không có trường sở, không có giảng viên, thậm chí không có cả sinh viên, người ta vẫn đua nhau mở trường đại học để tới nay, trường không có người học (mặc dù nhiều trường đã phải lấy tới những thí sinh chỉ được 7 điểm thi 3 môn). Luôn kêu chất lượng đại học xuống cấp, nhưng ngân sách không được sử dụng để nâng cao chất lượng các trường đã có mà được sử dụng để mở trường tràn lan dù cho tỷ lệ sinh viên ra trường không tìm được việc làm ngày càng cao.

Lối “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” này đã khiến cho tình trạng giáo dục nước ta ngày càng lộn xộn. Việc mở trường (cả trung học và đại học) chỉ nhằm phục vụ lợi ích của những người có quyền ra quyết định thành lập trường, các “ông chủ” trường, và  người dạy (mặc dù chất lượng rất thấp, nhiều khi chỉ trong tình trạng “cơm chấm cơm”, cử nhân đào tạo cử nhân) và một số ít người cần cái bằng đại học làm đồ trang sức, để hợp thức hóa việc chui vào các cơ quan nhà nước của những “con ông cháu cha” chứ hoàn toàn không phục vụ nhu cầu chính đáng của người học và của toàn xã hội. Ngân sách dành cho giáo dục vốn đã chưa dồi dào, lại được sử dụng không đúng chỗ khiến sự lãng phí không thể nào chấp nhận được. Làm sao nền giáo dục có thể phát triển lành mạnh khi những người có trách nhiệm quản lý chỉ chăm chăm vào nhóm lợi ích của mình?

 

Một tình trạng cần cải cách ở nhóm những người này là thói quan liêu. Cán bộ ở các Viện nghiên cứu có nhiệm vụ giúp các cấp quản lý tiếp cận với các nghiên cứu khoa học tiên tiến để vận dụng vào thực tế nhưng họ ngoài sự hạn chế về trình độ (do được đào tạo hời hợt, chỉ chạy theo bằng cấp nhằm thực hiện vượt mức chỉ tiêu) lại ít hiểu biết về nghiệp vụ quản lý còn rất hạn chế trong việc hiểu biết một cách đầy đủ hiện trạng của các trường, những biểu hiện tích cực và tiêu cực của những người đang “đứng mũi chịu sào” trên mặt trận giáo dục. Những lần về cơ sở của họ phần lớn đều trong tình trạng “cưỡi ngựa xem hoa”. Vì thế, những chủ trương, biện pháp do các cơ quan này ban hành thường thiếu sức thuyết phục. Những cái được gọi là  công trình nghiên cứu của các Viện này chỉ làm được việc gần như duy nhất là tiêu hết tiền của các dự án, còn khi đem vận dụng luôn gặp tình trạng xa rời thực tế vì chỉ giải quyết những chuyện hết sức hình thức, kiểu như giáo án điện tử, sử dụng những công cụ hỗ trợ của công nghệ thông tin cho một số môn học, …Phần lớn những kết quả này đềug khó để tổng kết, đánh  giá vì phần lớn đều tyrong tình trạng “đứt gánh giữa đường”. Những giải pháp mang tính chất hình thức này chỉ khiến cho cái ao tù giáo dục gợn lên vài làn sóng ở bề mặt, không những chẳng hề làm cho làn nước trong sạch thêm mà còn tạo nên sự ngộ nhận và gây không ít tốn kém tiền bạc cho nhà nước và cha mẹ học sinh.

Loại thứ ba trong nhóm người này là những người chịu trách nhiệm giúp cấp trên theo dõi và chỉ đạo trực tiếp các trường. Đây chính  là những người thuộc thành phần trung gian mà người ta đã quen gọi “vừa chung chung vừa gian gian” do cách làm việc và tính cách của họ. Thay vì làm cầu nối, họ chỉ làm việc “dối trên lừa dưới”. Họ sẵn sàng che giấu những sai lầm của các trường miễn là được hiệu trưởng các trường thỏa mãn một số điều kiện vật chất, thậm chí còn “tham mưu” cho các trường tìm cách để “lách luật”, sau đó tiếp tục lừa dối cấp trên rằng “mọi việc vẫn tốt đẹp” thậm chí còn không tiếc lời để tán dương cho những người mắc sai phạm. Thế là giữa cấp trên và các trường phía dưới mất mối liên hệ tự nhiên. Sự chỉ đạo của cấp trên vốn ít ỏi, qua những cán bộ kiểu này hầu như chẳng còn gì. Thế là trường nào cũng trong tình cảnh “mạnh ai nấy làm”. Nhiều trường, nhất là các trường dân lập, có rất nhiều vi phạm nhưng vẫn được làm ngơ.

Không thay đổi, không cải cách những con người này, sự chỉ đạo, quản lý của các cấp hoàn toàn không có tác dụng.  

  1. Nhóm người có vai trò rất lớn trong cải cách giáo dục là giáo viên trực tiếp giảng dạy ở các trường mà người đứng đầu là Hiệu trưởng. Những người này chiếm tỷ lệ áp đảo trong ngành giáo dục ở bất cứ đâu.

Không thể phủ nhận vai trò của người Hiệu trưởng. Ông ta là người nhận mọi đường lối, chủ trương, chính sách, … từ cấp trên và trực tiếp thực hiện trong ngôi trường mà mình đứng đầu. Mọi thứ từ cấp trên có hay đến mấy, nhưng ông ta không thực hiện, hoặc thực hiện một cách tắc trách thì kết quả ra sao ai cũng biết. Ngược lại, có những chủ trương chưa hoàn chỉnh, những khiếm khuyết ấy sẽ được người Hiệu trưởng điều chỉnh, khắc phục, hạn chế tác hại  nếu ông ta là người hiểu biết và có tấm lòng với sự nghiệp vun trồng con người. Hiệu trưởng cũng là người trực tiếp quản lý giáo viên, người có thể hiểu giáo viên đầy đủ nhất về mọi mặt từ phẩm chất đạo đức đến năng lực chuyên môn, từ  sở trường đến  sở đoản,.. Biết “dụng nhân như dụng mộc”, người Hiệu trưởng sẽ phát huy tốt nhất khả năng và hạn chế thấp nhất những khiếm khuyết của giáo viên.

Nhưng đáng tiếc là hiện nay, số những người là Hiệu trưởng có tâm có đức và có tài không nhiều. Do đã phải bỏ ra một số “vốn” không nhỏ để ngồi vào cái ghế ấy, rồi lại phải không ngừng bảo trì bảo dưỡng, “gia cố” cho cái ghế ấy thêm chắc chắn, rồi còn vì tham vọng giàu sang không có điểm dừng, rồi phải lo cho tương lai  khi chỗ đứng không còn, … nên phần lớn các ngài Hiệu trưởng (thường chỉ ngồi cái ghế đó được chừng vài chục năm) bây giờ chỉ còn coi nhà trường là cỗ máy in tiền mặc dù cổng trường nào cũng treo một cái khẩu hiệu to tướng “Tất cả vì học sinh thân yêu!” Những chủ trương từ trên đưa xuống, cái gì đẻ ra tiền thì được ra sức thực hiện. Còn cái gì “không sinh lợi” hay đúng hơn là chỉ sinh lợi cho việc giáo dục thì thường được xếp xó. Thậm chí, nhiều chủ trương đúng đắn cũng bị bóp méo nhằm thu lợi riêng.

Một việc nhỏ là có quy định Hiệu trưởng phải trực tiếp giảng dạy 2 tiết một tuần để thường xuyên theo sát hoạt động giảng dạy và học tập của học sinh nhưng cũng chẳng ai thực hiện. Cấp trên “biết thừa”, nhưng vì những lý do vô cùng tế nhị nên cũng làm ngơ. Việc nhỏ như thế còn không làm, hy vọng gì làm việc lớn hơn?

Ngay cái việc quan trọng vào loại bậc nhất, nhà nước và nhân dân hàng năm tốn kém nhiều nghìn tỉ đồng và biết bao công sức để tổ chức kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học, nhưng  không ít Hiệu trưởng, nhờ có “bác” dẫn đường,  có khả năng xâm nhập vào tới nơi thâm nghiêm nhất để lũng đoạn. Cái cơ quan “Khảo thí và kiểm định chất lượng” nghe rất “oai” nhưng nhiều khi đều chịu sự điều hành  của mấy ông này trong việc sắp xếp bố trí người coi thi,  chấm thi và những công việc vốn cần sự nghiêm cẩn. Đến những việc như thế họ còn dám làm, và còn làm được thì hy vọng gì ở việc họ lãnh đạo nhà trường  và giáo viên trong trường thực hiện cải cách giáo dục?

 Giáo viên là những người trực tiếp giảng dạy và đánh giá học sinh. Nếu giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, chương trình, sách giáo khoa có thể còn những khiếm khuyết (và chắc chắn không ai có thể viết được một cuốn sách giáo khoa hoàn toàn không có thiếu sót), họ vẫn khắc phục được. Thậm chí có thời kỳ, các nhà trường của chúng ta còn chưa có sách giáo khoa mà học sinh vẫn học tốt (dĩ nhiên có khó khăn hơn là có sách). Có những giáo viên biết “đính chính” những điều còn thiếu sót và biết cần thêm thời gian cho những phần mà chương trình, sách giáo khoa còn sơ lược.

Nhưng giáo viên hiện nay hầu như không có động lực để làm việc, để tự nâng cao trình độ. Lẽ ra, qua thi cử nghiêm túc, năng lực chuyên môn của giáo viên sẽ được khẳng định, phẩm chất của người thầy được tôn vinh. Nhưng nay thi cử gian dối, hóa ra mọi người thầy thành “bình đẳng” cả. Những danh hiệu như giáo viên dạy giỏi, nhà giáo ưu tú, nhà\ giáo nhân dân dù chỉ là “hão”  hình như cũng không phải dành cho những người thầy toàn tâm vì sự nghiệp. Còn đồng lương thì ai cũng rõ. Các ngành, các nghề, … cơ quan nào cũng còn có khoản nọ khoản kia, chứ thầy cô giáo, ngoài một số người có thể no đủ nhờ dạy thêm, phần lớn đều phải kiếm sống bằng những nghề nhiều khi chẳng liên quan gì đến việc dạỵ học. Một số người còn có cuộc sống dưới mức trung bình. Từ đó sinh ra đủ những chuyện đau lòng. Không quan tâm đầy đủ đến đời sống của những người vẫn được coi là đang làm  một  nghề cao quý, làm sao họ tha thiết với cải cách giáo dục?

 

Cho nên, một lần nữa, tôi xin đề nghị, đừng vội nghĩ đến việc thay đổi chương trình, viết lại sách giáo khoa. Trước hết phải nghĩ tới việc cải cách con người. Chỉ khi con người thuộc cả ba nhóm ấy có chuyển biến, những con người toàn tâm toàn ý cho giáo dục, những con người  không vì lợi ích của những phe nhóm được trân trọng,   mọi việc mới có thể cải cách. Việc làm lại chương trình và viết lại sách giáo khoa mới không đi vào vết xe đổ của những lần trước, làm lãng phí tiền bạc công sức của nhân dân.

 

Với khoản tiền không nhỏ đã chuẩn bị dành cho việc cải cách này, tôi đề nghị chọn một trong hai cách:

Một là, sử dụng số tiền này cho tất cả các thí sinh đỗ thủ khoa kỳ thi đại học vừa qua đi học ở  nước ngoài. Đó là một cách đầu tư cho tương lai có hiệu quả, mà không phải lựa chọn phiền phức, tránh được bao tiêu cực.

Hai là, nhường cho các khoản chi khác cần thiết hơn, thí dụ như xây dựng mới nhiều bệnh viện góp phần giảm tải cho  các bệnh viện hiện nay.

Còn nếu có ai đó nói rằng “Không thể chậm trễ việc cải cách vì chúng tôi sắp hết nhiệm kỳ rồi!” thì tôi xin chịu! Xin cứ cải cách, chắc chắn chỉ hoàn thành (mà còn hoàn thành vượt mức) việc tiêu tiền, còn mọi thứ  lại phải có một cuộc cải cách tiếp theo!

7 BÌNH LUẬN

  1. Nghề “trồng người” nên phải cải cách con người là phải lắm. Nhưng tronh tình hình hiện nay, không cải cách được đâu

  2. Bác Duong Dinh Giao nhận định rất chính xác.
    Đây là căn bệnh quan liêu vô trách nhiệm đã hình thành từ thời bao cấp.
    Một cá nhân quyền lực quan liêu có thể tạo ra hậu quả rất lớn cho xã hội.
    Rất buồn là các quan chức ngày nay hầu hết quen nói hơn quen làm, càng lên cao càng lười biếng và xa dân.

  3. Cải cách giáo dục hay cải cách con người , nhưng vẫn giữ nguyên mô hình chế độ như hiện nay, thì chỉ là giải pháp ” Đánh bùn sang ao”. Một hệ thống máy móc hỏng do thiết kế và thi công sai, thay một vài chi tiết không giải quyết được gì.

  4. Buồn!!! Cho dù ngày nay được tự do xuất cảnh để du học nhưng Việt nam vẫn không khá nổi. Chế độ, chính phủ thì mục nát, nạn tham nhũng lan tràn nhưng mỗi một thành viên của xã hội cũng phải có trách nhiệm đối với tình trạng chung hiện giờ.

    Một thí dụ điển hình tương tự là nước Hy Lạp và kết quả ai cũng thấy. Mặc dầu nhận được không biết bao nhiêu viện trợ từ Anh, Đức (ngày xưa) và EU, IWF bây giờ nhưng nước này từ khi giành độc lập từ Để Quốc Osman từ hơn 100 năm nay vẫn khá lên không nỗi và bị phá sản nhiều lần.

    Lý đó là người dân luôn tìm cách luồn lách pháp luật, luôn coi mình là kẻ bị trị và coi chính phủ do chính mình bỏ lá phiếu dân chủ để bấu lên là kẻ thống trị. Cho nên mạnh ai nầy cứ trốn thuế được thì trốn coi đó như là một môn thể thao dân tộc. Trong thời gian dài sau khi giành độc lập Hy Lạp từng được điều hành bằng nhiều thể chế và đảng phái khác nhau như chế đó độc tài, chế độ dân chủ do cánh tả, chế đó dân chủ đó cánh hữu v.v.. hiện giờ là CS. Sau khi nền độc tài bị lật đô các đang phải dân chủ lần lượt thay thế nhau để điều hành Hy Lạp nhưng cuối cùng thi đâu vẫn hoàn đó kết quả cuối cùng vẫn như nhau.

    Do đó nếu dân mình không thay đổi tư duy thì nước mình không khá lên được đâu cho dầu chính phủ có thay đổi cũng vậy thôi. Tất nhiên phia chính phủ cũng phải cái cách hệ thống quản lý để kích cầu tích cực những người có tính sáng tạo và năng động tham gia mở công ty, hay đóng góp trên mọi lĩnh vực để phát triển kinh tế, xã hội.

    Cho nên thay đổi chính phủ không thì vẫn chưa có nghĩa là mình sẽ khá lên mà bản thân mọi người dân trong xã hội phải có ý thức. Thật đáng buồn cho VN bởi mình e rằng nước ta sẽ có số phận giống như Hy Lạp. Mong rằng mình sai lầm trong nhận định này!!!

  5. He he, vẫn cứ “định hướng” thì muôn năm vẫn thế thôi! Đằng nào thì mục đích của GD vẫn là cho ra lò những “con người mới XHCN” thôi – làm gì có chuyện “vấn đề con người” hay gì gì chứ! Lão Cẩm này nói chưa có bao giờ sai!
    Xin các thầy đừng có ảo tưởng vào “vấn đề con người” nào!

  6. Một khi cái giả luôn được coi như thật thì tất cả cái coi như thật khác đều là giả…há há há.

Trả lời Tuan Nhu To Hủy trả lời

Please enter your comment!
Please enter your name here